Câu chuyện tội ác tày trời đằng sau bài thơ “Người con gái Việt Nam” của Tố Hữu

ongzaleorank

Administrator
Nhân viên
Giữa năm 1958, Bệnh viện Hữu nghị Việt – Xô (Hà Nội) đã tiếp nhận một bệnh nhân đặc biệt.

Hồ sơ bệnh án ghi: “Trần Thị Nhâm (tức Lý), tuổi 25, quê Miền Nam, cân nặng: 26kg. Tình trạng bệnh nhân: Suy kiệt, luôn lên cơn co giật, có 42 vết thương trên người liên tục rỉ máu, đầu vú bị cắt còn loét nham nhở, bộ phận sinh dục chảy máu liên tục”.

1712818943557.png
Trần Thị Lý ký tặng vào bức tranh vẽ mình khi trên giường bệnh (Ảnh tư liệu)​

Trần Thị Lý sinh năm 1933 tại Quảng Nam, bà tham gia Cách Mạng từ năm 12 tuổi. Trong giai đoạn từ 1951 – 1956, bà tham gia đường dây cán bộ nằm vùng và đã từng 2 lần bị bắt nhưng đều được tha vì không đủ chứng cứ. Năm 1956 bà bị chính quyền tay sai VNCH bắt lần thứ 3, bà bị tra tấn với những hình thức dã man nhất như: điện giật, dùi đâm, đổ nước xà phòng, dùng dao cắt vú, dùng lửa nung bộ phận sinh dục đến nỗi bị mất khả năng sinh sản…nhưng người phụ nữ trung kiên ấy vẫn không hé răng dù chỉ một lời.


1712819119789.png
Chân dung nữ anh hùng Trần Thị Lý – “Người con gái Việt Nam”. (Ảnh tư liệu)​

Tháng 10 năm 1958, Trần Thị Lý bị tra tấn tới kiệt sức, phía chính quyền tay sai VNCH cho rằng bà không thể sống được nữa nên đem vứt bà ra ngoài nhà lao, bà may mắn thoát chết một cách hi hữu, được đồng đội bí mật đón về, chuyển sang Campuchia và được đưa ra Bắc chữa trị.Sự kiện Trần Thị Lý bị bắt, bị tra tấn ngoài sức tưởng tượng đã làm rúng động dư luận thế giới bấy giờ và nó bắt đầu châm ngòi cho cuộc chiến truyền thông giữa hai miền Nam Bắc.

1712820707056.png
Bác sĩ đang chăm sóc vết thương cho chị Trần Thị Lý, năm 1958. (Ảnh tư liệu)​

Ngay lập tức không lâu sau đó, 17 giờ ngày 25-10-1958, Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội đã phát đi bản tin về Trần Thị Lý với nội dung: “Chị Lý bị bọn tay chân của Diệm bắt đánh đập, “sám hối” với những nhục hình dã man như: lấy kìm sắt kẹp vào người rứt ra từng mảng thịt, dùng điện tra vào đầu vú và bộ phận sinh dục!”.

Tiếp đó, lúc 7 giờ 15 ngày 19-11-1958, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam lại phát đi lời kêu gọi của Trần Thị Lý gửi Ủy ban Quốc tế, chị kể: “Lần thứ 3, tháng 3-1956, chúng bắt tôi về nhà lao Hội An và tra tấn vô cùng dã man, tên Phan Văn Lợi, người do Diệm cử từ Sài Gòn ra, cùng nhiều tên khác trực tiếp tra tấn. Chúng đổ nước xà phòng và nước bẩn vào họng tôi rồi mang giày đinh thi nhau đạp lên bụng, lên ngực làm nước trào ra miệng và mũi. Chúng lấy móc sắt xuyên bàn chân tôi rồi treo ngược lên xà nhà, dùng điện tra vào cửa mình và vú; lấy dao xẻo từng miếng thịt trên đùi, cánh tay và ngực. Chúng dùng kìm sắt nung đỏ rồi kẹp vào bắp thịt tôi rứt ra từng mảng, dùng thước sắt thọc vào âm đạo… Chúng bắt tôi phải nhận tội “Thân cộng” và “Chống chính phủ quốc gia” của chúng!”.

Ngày 21-11-1958, 5 bộ đội Liên khu 5 viết kiến nghị và được 2.000 đại biểu ký gửi đến Ủy ban Quốc tế phản đối sự dã man của chính quyền tay sai Sài Gòn đối với Trần Thị Lý. Từ ngày 11 đến 21-11-1958, 39 đoàn khách quốc tế đến thăm chị Lý và 62 đoàn tiếp tục đăng ký vào thăm. Đài Phát thanh Hà Nội cũng phát đi lời của ông Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt–Anh rằng:

“Tôi đã từng chứng kiến tội ác của bọn thực dân đối với nhân dân thuộc địa song tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam nỡ đối xử với người Việt Nam tàn tệ như thế. Với chính sách đàn áp dã man này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tỏ ra rất thối nát. Ủy ban Quốc tế tại Việt Nam cần lưu ý ngay đến vấn đề này, đó là nhiệm vụ của họ!”.

“Lần thứ ba tôi bị bắt trong một đợt tấn công của địch ở địa phương tôi, và cũng là lần mà tôi phải chịu sự tra tấn tàn bạo nhất. Chúng giam tôi ở Hội An, trong một nhà lao chật ních những người kháng chiến.

Hai tên công an lưu động của chính quyền Ngô Đình Diệm tên là Sáng và Lợi từ Sài Gòn đặc phái đến nhà lao Hội An cùng với bọn công an của quận như các tên: Lịch, Chanh, Khánh, Lương, Thôi, Tre…liên tục tra tấn tôi hàng tháng trời. chúng tuyên bố: dùng phương pháp tra tấn Mỹ để đánh cho tiệt đường con cái, đánh cho tàn phế, đánh chết không đền mạng. Chúng lột trần tôi, căng người tôi lên một miếng ván, đổ nước xà phòng và một thứ nước bẩn thỉu nhất vào mồm, vào mũi tôi, rồi thay nhau đi giày đinh giẫm lên bụng, lên ngực tôi. Máu và nước ộc ra, tôi chết ngất nhiều lần. Chúng lấy móc sắt xiên ngang bàn chân tôi treo ngược lên xà nhà, dùng điện quay vào vú, vào cửa mình tôi, lấy dao xẻo từng mảng thịt ở đùi non, ở vú, ở bắt chân, ở cánh tay tôi, lấy thước thọc mạnh vào âm hộ tôi, bứt từng mảng tóc tôi và nắm tai tôi lôi đi hàng chục thước, rồi nung kìm sắt đỏ cặp vào các bắp thịt tôi, rứt ra từng miếng cháy xèo xèo… Cứ thế, những hình thức tra tấn kéo dài hàng tháng trời, thân hình tôi đầy những vết thương. Mục đích của bọn tra tấn là bắt tôi phải nhận là “thân cộng’, là hoạt động chống lại “Chính phủ quốc gia”, phải vu cáo những người kháng chiến cũ…

1712820737819.png
Bác Hồ với chị Trần Thị Lý gần Tết năm 1967 (Ảnh: Công an Nhân dân).​

Và tất nhiên, chẳng bao giờ tôi-người con gái sông nước Thu Bồn lại nhận trước kẻ thù, rằng mình sẽ phản bội lại đồng bào, đồng chí, mặc dù luôn bị “điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung”…

Trong thời gian dưỡng bệnh ở Hà Nội, Trần Thị Lý có tình cảm với một thương binh đồng hương. Chồng chị là Thầy giáo Nguyễn Viết Tuấn. Tháng 3 năm 1978, khước từ mọi mai mối, bất chấp lời khuyên của chị Lý nên xây dựng hạnh phúc với những người con gái lành lặn khác, anh Tuấn vẫn quyết tâm xây dựng đời sống gia đình với chị. Và đám cưới của họ được tổ chức tại quê hương Đại Lộc. Tháng 5 năm 1978, Nguyễn Viết Tuấn tốt nghiệp ĐH Bách khoa Hà Nội rồi trở về Quảng Nam- Đà Nẵng làm CB giảng dạy ở khoa điện. Ngôi nhà 63- đường Hải Phòng giữa lòng Đà Nẵng thân thương ghi dấu biết bao nhiêu là ý chí, nghị lực của cả hai để có được hơi ấm thực sự của hạnh phúc gia đình, trong đó, có cả tương lai của đứa con gái tên gọi Thuỳ Linh.

Do bị tra tấn, bà mất khả năng sinh nở nên hai người nhận một con gái nuôi. Năm 1979, Trần Thị Lý từ Hà Nội về sống tại Đà Nẵng, trong điều kiện sức khỏe được phục hồi một phần. Gia cảnh gia đình bà thời gian đó khó khăn, nhiều năm liền sống trong căn nhà cấp 4. Chị mất vào ngày 20/11/1992 tại Đà Nẵng

Ở Đà Nẵng từng có cây cầu mang tên chị Trần Thị Lý. Đến nay, sau thời gian xuống cấp, cây cầu đã bị dỡ bỏ và được thay thế bởi một cây cầu dây văng hiện đại mang tên Nguyễn Văn Trỗi – Trần Thị Lý.

Khi nhà thơ Tố Hữu đến thăm Trần Thị Lý, ông đã khóc rất nhiều vì quá xúc động. Tháng 12-1958, bài thơ “Người con gái Việt Nam” của ông được ra đời (sau đó được dịch ra nhiều thứ tiếng), gây xúc động lòng người và là tâm điểm chú ý của dư luận quốc tế.

Dưới đây là toàn bộ bài thơ “Người con gái Việt Nam”, được nhà thơ Tố Hữu sáng tác để tặng chị Trần Thị Lý:

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm giông
Thịt da em hay là sắt là đồng?

Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt
Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt
Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh
Trên mình em đau đớn cả thân cành!

Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!

Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại
Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
Không phải cho em. Cho Lẽ phải trên đời
Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người!

Từ cõi chết, em trở về, chói lọi
Như buổi em đi, ngọn cờ đỏ gọi
Em trở về, người con gái quang vinh
Cả Nước ôm em, khúc ruột của mình.

Em đã sống, bởi vì em đã thắng
Cả Nước bên em, quanh giường nệm trắng
Hát cho em nghe như tiếng mẹ ngày xưa
Sông Thu Bồn giọng hát đò đưa…

Cả Nước cho em, cho em tất cả
Máu tiếp máu, cho lại hồng đôi má
Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân
Cho thịt da em lại nở trắng ngần!

Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
Đôi gót đỏ lại trở về quê mẹ
Em sẽ đi, trên đường ấy thênh thang
Như những ngày xưa, rực rỡ sao vàng!

Ôi đôi mắt của em nhìn, rất đẹp
Hãy sáng mãi niềm tin tươi ánh thép
Như quê em gò nổi Kỳ Lam
Hỡi em, người con gái Việt Nam!

7-12-1958
 
Một bài viết khác từ báo Dân Trí:

Những điều chưa biết về nữ anh hùng Trần Thị Lý
(Dân trí) - Giữa năm 1958, BV Việt - Xô tiếp nhận một bệnh nhân đặc biệt. Hồ sơ bệnh án ghi: "Trần Thị Nhâm (tức Lý), tuổi 25, quê Miền Nam, cân nặng: 26 kg. Tình trạng bệnh: Suy kiệt, luôn lên cơn co giật, có 42 vết thương trên người liên tục rỉ máu, đầu vú bị cắt còn loét nham nhở, bộ phận sinh dục chảy máu liên tục".

Người con gái anh hùng
Từ nhà mẹ Suốt, chúng tôi có ý định vào Đà Nẵng để tìm hiểu về người con gái Việt Nam anh hùng Trần Thị Lý. Cái khó nhất là chúng tôi chỉ biết chị Lý từng sống ở Đà Nẵng và có trường Trần Thị Lý ở TP Đà Nẵng, còn những thông tin khác như gia đình chị Trần Thị Lý bây giờ ở đâu, chị Lý mất khi nào, những kỷ vật còn lại của chị Lý... thì chúng tôi mù tịt. Rất may, chúng tôi nghe được thông tin chị Lý có một người con nuôi là Thùy Linh đang ở phố Lê Lợi, Đà Nẵng. Liên lạc với Thuỳ Linh, chúng tôi nhận được một lời hẹn gặp ông Tuấn, ba nuôi của Thuỳ Linh, chồng của chị Lý.
Hơn 9 giờ sáng, chúng tôi có mặt tại ngôi nhà của gia đình chị Lý trên phố Lê Lợi. Tiếp chúng tôi là một người đàn ông gầy yếu. Ông bị căn bệnh hễ cứ gặp nắng, gió là ốm nên không thể ra ngoài được. Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về cuộc đời của chị Lý, ông lặng đi một lát rồi nói: Lý mất rồi, những kỷ vật của Lý cũng không còn nhiều nữa. Nhưng những gì về Lý thì ông chẳng thể nào quên.
Những năm 1956-1958, chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng cực kỳ ác liệt. Từ năm 1956, chị Lý lúc đó mới 23 tuổi đã tham gia làm giao liên cho cách mạng ở huyện Điện Bàn - Quảng Nam. Gia đình chị Lý có 7 anh chị em thì có tới 5 người là liệt sĩ. Ngay tại nghĩa trang liệt sĩ Quảng Nam, mộ 3 chị em của chị Lý cùng đặt ở đây.
Chị Lý bị bắt khi đang trên đường đi công tác. Những ngày ở tù, chị phải hứng chịu biết bao đòn tra tấn khủng khiếp của kẻ thù. Sau này nhà báo Bích Thuận (Báo Phụ nữ VN) đã vào tận nơi tìm hiểu khi chị Lý còn sống và đã viết cuốn sách Sống giữa tình thương nói về đoạn đời oanh liệt của chị Trần Thị Lý.
Có lẽ cũng ít người biết được Trần Thị Lý chính là cháu nhà cách mạng Trần Cao Vân, người đã nhiều lần mưu toan chống Pháp và bị đi đày ở Côn Đảo 6 năm. Năm 1916, Trần Cao Vân cùng Thái Phiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Quang Phục hội. Khởi nghĩa thất bại, 2 ông bị bắt và bị chém ở cố đô Huế.
Trần Thị Lý tên thật là Trần Thị Nhâm. Chị được kết nạp Đảng năm 18 tuổi. Trần Thị Lý bị bắt năm 1956 và để khuất phục chị, bọn địch đã không từ bất cứ thủ đoạn tra tấn dã man tàn ác nào. Sau hơn 2 năm giam cầm, tù đầy, tra tấn dã man mà không khai thác được gì, địch vứt chị Lý ra ngoài nhà lao vì tưởng chị đã chết.
Nhưng chị vẫn sống với một sức mạnh lạ kỳ. Tổ chức đã quyết định đưa chị ra Bắc trong một hành trình rất đặc biệt: từ Quảng Nam vào Sài Gòn, sang Phnômpênh (Campuchia) rồi từ đó bay bằng máy bay ra Hà Nội, trong lúc chị Lý mình đầy thương tích.
Lúc đó là vào giữa năm 1958. Phòng bệnh số 8, Nhà A1, BV Việt - Xô tiếp nhận một bệnh nhân đặc biệt. Hồ sơ bệnh án ghi: "Trần Thị Nhâm (tức Lý), tuổi 25, quê Miền Nam, cân nặng: 26 kg. Tình trạng bệnh: Suy kiệt, luôn lên cơn co giật, có 42 vết thương trên người liên tục rỉ máu, đầu vú bị cắt còn loét nham nhở, bộ phận sinh dục chảy máu liên tục".
Nhà thơ Tố Hữu đã đến bên giường bệnh thăm chị và ông đã khóc vì quá xúc động. Bài thơ Người con gái VN của ông xuất hiện tháng 12/1958. Bài thơ sau đó đưa vào sách giáo khoa, được dịch ra nhiều thứ tiếng, gây xúc động lòng người và là tâm điểm chú ý của dư luận quốc tế. Trần Thị Lý chính là bằng chứng sống tố cáo tội ác chiến tranh lúc đó.
Cuộc đối thoại với người ở lại
Ông Tuấn lên gác và lấy xuống gần như tất cả những gì còn lại của chị Lý. Những bức ảnh chụp chị nằm trên giường bệnh, rồi chụp chị lúc ở Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari, khi chị sang chữa bệnh và tố cáo tội ác chiến tranh.
Ông nhớ lại: Lúc đó vào năm 1968, tôi cũng từ chiến trường Quảng Đà ra Hà Nội. Trước đó tôi cũng đã biết và khâm phục Lý. Ra Hà Nội đến K5, ở Quảng Bá, Hồ Tây bây giờ, tôi được gặp Lý. Nom Lý gầy gò, tiều tuỵ, nhưng cảm phục Lý, lại nhân tình đồng hương, nên chúng tôi luôn gần nhau, tâm sự động viên nhau, rồi dần thành tình yêu. Chúng tôi cũng tổ chức một đám cưới rất đơn giản và phải chờ sau này đến năm 1978, mới làm thủ tục đăng ký kết hôn. Biết là không thể sinh nở được vì Lý có quá nhiều vết thương, chúng tôi xin bé Thuỳ Linh (lúc bé mới được vài ngày tuổi) để làm con nuôi.
Qua câu chuyện với ông Tuấn chúng tôi mới biết, đến tận năm 1992, có nghĩa gần 40 năm sau cái ngày hình ảnh anh hùng của Trần Thị Lý được cả thế giới biết đến, chị Lý mới được công nhận và phong tặng danh hiệu Anh hùng. Tại sao chị Lý không được phong tặng danh hiệu này ngay những năm 60 - 70 hoặc ngay sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước? Ông Tuấn cười buồn lảng tránh: “Có lẽ các ổng cũng bận quá”.
Rất nhiều người không biết rằng sau ngày giải phóng, gia cảnh chị Lý rất nghèo. Cả 2 vợ chồng và cô con gái nhiều năm liền vẫn sống trong ngồi nhà cấp 4 tồi tàn ở trên đường Hải Phòng (Đà Nẵng). Có lúc vợ chồng chị phải sản xuất bia thủ công để kiếm sống.
Chị Lý mất ngày 20/11/1992 ở tuổi 59, chỉ sau khi chị được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang ít lâu. Sau này khi chị mất, Hãng phim tài liệu TƯ có làm một cuốn phim khá công phu về cuộc đời chị dựa vào cái tên trong bài thơ Người con gái VN của Tố Hữu. Một số nhà báo có về tận nơi tìm hiểu và viết về chị.
Ông Tuấn đưa cho tôi xem một số bức ảnh chị Lý chụp chung với các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Có lẽ những bức ảnh là những kỷ vật quý giá nhất còn giữ lại của chị Lý. Mất một hồi lâu, ông Tuấn mang từ trên bàn thờ chị Lý xuống một chiếc mũ sắt. Đó là chiếc mũ sắt mà Bác Hồ đã tặng cho chị. Những kỷ vật còn lại chỉ còn cái màn, một lọ hoa và chiếc vali mà Bác Hồ tặng nhưng Viện bảo tàng Cách mạng VN ngoài Hà Nội đã "xin" mất.
Một kỷ vật nữa vẫn còn lưu giữ là cuốn sách Người con gái VN được dịch ra tiếng Trung Quốc trên có ghi bút tích của nhà thơ Chế Lan Viên "Kính tặng chị Trần Thị Lý. Nhờ chị Anh Thơ chuyển giúp. 1959". Nét chữ đôi chỗ đã nhoè. Ông Tuấn cũng không biết chị Anh Thơ lúc đó là ai.
Đến bây giờ, gần 50 năm đã trôi qua, tôi có thêm được một may mắn khi đứng ngay trong ngôi nhà của chị Trần Thị Lý, gặp những người thân và được nghe kể về chị.
Những nhân chứng còn sót lại, đã từng sống, chiến đấu cùng chị Lý cũng không còn nhiều người như ông Bẩy Quang, người tổ chức đưa Trần Thị Lý ra miền Bắc, hay bà Bảy Vân, người giao liên cùng tổ với Lý. Nay họ đều đã ở tuổi ngoài 70, ốm yếu vì bệnh tật do lao tù của địch.
Rời nhà chị Trần Thị Lý, chúng tôi đi qua nghĩa trang Điện Bàn, nơi có mộ của Trần Thị Lý. Gió vẫn vi vút thổi trên cánh đồng lúa. Ngẫm lại những gì đã qua trong cuộc đời chị Lý, chúng tôi không khỏi cảm thấy chút se sắt buồn...

Hiền Chi Mai
 
Bài viết : Truyện về anh hùng Trần Thị Lý của Hồ Ngọc Diệp lại viết : chị sinh ra ở Phú thương, Phú hải, Đồng Hới, là vợ của Thượng tướng Nguyễn Chơn, sinh được 2 con gái. Chị mất ngày 07/5/2000. Vậy đâu là sự thật???
 
Bài viết : Truyện về anh hùng Trần Thị Lý của Hồ Ngọc Diệp lại viết : chị sinh ra ở Phú thương, Phú hải, Đồng Hới, là vợ của Thượng tướng Nguyễn Chơn, sinh được 2 con gái. Chị mất ngày 07/5/2000. Vậy đâu là sự thật???
Có 2 anh hùng tên là Trần Thị Lý anh nhé, 1 người ở Quảng Nam và 1 người ở Quảng Bình. Trần Thị Lý mà anh nói là ở Quảng Bình.
 
Back
Bên trên